Anh còi
Ngoài
vị lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh, chắc hẳn chúng ta vẫn còn tự hào về cậu học
trò xuất sắc của Người. Đó chính là đại tướng Võ Nguyên Giáp, một trong những
nhân vật nổi bật hàng đầu của lịch sử Việt Nam mà tên tuổi ông gắn liền với cuộc
cách mạng độc lập dân tộc.
Dù
chiến tranh đã kết thúc rất lâu rồi tuy nhiên con cháu đời sau vẫn mãi nhớ về
những chiến công hiển hách cùng với những đóng góp to lơn của đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Để hiểu rõ hơn sau đây chúng ta cùng tìm hiểu kỹ về đại tướng Võ
Nguyên Giáp.
Võ Nguyên Giáp (sinh ngày 25 tháng 8
năm 1911) là một nhà chỉ huy quân sự và nhà hoạt động
chính trị Việt Nam. Là đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông chỉ huy
chính trong chiến tranh Đông Dương (1946–1954) và chiến tranh Việt Nam (1960–1975). Ông tham
gia vào nhiều chiến dịch quan trọng như Chiến dịch Biên giới thu đông 1950,
Trận Điện Biên Phủ (1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ông là nhà chỉ huy
quân sự nổi bật nhất bên cạnh Hồ Chí Minh
trong suốt cuộc chiến và lãnh đạo nhiều chiến dịch lớn cho đến khi chiến tranh
kết thúc.
Cuộc đời đại tướng Võ Nguyên Giáp
Võ Nguyên Giáp
sinh ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
trong một gia đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên
Thân), một nhà nho đức độ và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên. Võ Quang
Nghiêm là một nho sinh
thi cử bất thành về làm hương sư và thầy thuốc Đông y,
khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
bùng nổ, ông bị Pháp bắt, đưa về giam ở Huế
và mất trong tù. Sau ngày đất nước hòa bình, con cháu đã tìm thấy và bốc mộ ông
đưa về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Lệ Thủy.
Gia đình Võ
Nguyên Giáp có 7 anh chị em, nhưng người anh cả và chị cả mất sớm nên còn lại
năm, 3 người con gái và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, sau này là
Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Võ Nguyên Giáp sinh trưởng trong một dòng họ lớn, có tiếng
tăm tại làng An Xá, có nhà từ đường khá to ở cuối làng. Cậu sinh ra khi ông nội
đã mất, nhưng cậu nhớ như in lúc bà nội mất bà mặc chiếc áo điều thắm.
Gia đình cụ
Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà
giàu như nhà Khóa Uy, một Hoa kiều
giàu có ở làng Tuy Lộc kề bên. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo thuyền chở
thóc đi trả nợ. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho cậu
nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi
hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ
non sông, còn cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè “Thất thủ kinh đô”
đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai mờ, góp
phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp cách mạng sau này.
Cha ông là một
nhà Nho nên dạy dỗ con cái rất nghiêm cẩn trong sinh hoạt gia đình và học hành,
giữ gìn nề nếp gia phong của đạo Khổng. Ông khuyên dạy con: "Chữ Nho là
chữ của Thánh hiền, là nho sinh,
các con không được nghịch ngợm, dẫm đạp lên sách vở chữ Nho". Ông dạy
đám học trò cùng hai con ông: Tạm thiện tự, Ngũ thiên tự và cả Ấu học tân thư.
Năm tháng học chữ Nho không nhiều nhưng những đạo lý học được trong các sách
của Thánh hiền Nho gia, đặc biệt là Ấu học tân thư, đã có ảnh hưởng sâu sắc
trong cả cuộc đời ông.
Học xong lớp 3
cậu phải xuống thị xã Đồng Hới học tiếp, Đồng Hới thuộc tỉnh lỵ Quảng Bình,
cách làng An Xá của cậu trên 20 cây số, nằm bên bờ Nhật Lệ trong xanh lung linh
soi bóng Lũy thầy, với thành cổ bao quanh từ thời Gia Long năm thứ 10 (1812) và
được xây lại bằng gạch năm Minh Mạng thứ năm (1824).
Những năm học ở
thị xã Đồng Hới, cậu Giáp ở trọ nhà người quen của cụ Nghiêm. Cậu được gia chủ
quý mến coi như con cháu trong nhà, không lấy tiền trọ, cậu được học với nhà sư
phạm có tiếng, thầy giáo Đào Duy Anh.
Hai năm học ở tiểu học Đồng Hới, hàng tháng cậu luôn đứng đầu lớp. Tại kỳ thi
tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu toàn tỉnh. Về làng cậu được dân làng nể
trọng, gia đình rất tự hào về cậu.
Tháng 4/1927 tại
trường Quốc học Huế lại diễn ra một cuộc bãi khóa rầm rộ với quy mô lớn. Nguyễn Chí Diểu bị tên giám thị Pháp chú ý, coi
là kẻ cầm đầu những cuộc đấu tranh bãi khóa ở trường, nên đuổi học. Võ Nguyên
Giáp liền bàn với Nguyễn Khoa Văn tiếp tục tổ chức bãi khóa để phản đối việc
Diểu bị đuổi học. Cuộc bãi khóa của học sinh Trường Quốc học Huế lan rộng ra
khắp các trường ở Huế và phát triển thành cuộc tổng bãi khóa. Võ Nguyên Giáp bị
bắt rồi bị đuổi học, phải trở về quê nhà. Bỗng nhiên một hôm Nguyễn Chí Diểu
lặn lội từ Huế về làng An Xá tìm gặp Võ Nguyên Giáp. Diểu mang theo một tập tài
liệu về “Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới” và một số văn
kiện cuộc họp của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng
chí Hội ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Anh Giáp đọc rất xúc động.
Mùa hè năm 1928,
Võ Nguyên Giáp trở lại Huế, bước vào đời của một chiến sĩ cách mạng. Tại Huế,
Nguyễn Chí Diểu giới thiệu anh Giáp đến làm việc ở Quan Hải Tùng thư, một nhà
xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương, trụ sở đặt ở phố Đông Sa. Sáng lập
viên là Đào Duy Anh. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều
kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc
biệt là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tờ báo “Người
cùng khổ” (Le Paria) do Nguyễn Ái Quốc viết từ Pháp gửi về.
Đầu tháng 10
năm 1930,
trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị
giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế),
cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các giáo sư
Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng... Sau này Liệt sỹ Nguyễn Thị Quang Thái chính là người vợ
đầu tiên của Đại Tướng. Đại tướng có một con với Bà là Võ Hồng Anh.
Chị Thái hẹn, khi con cứng cáp sẽ đi thoát ly hoạt động. Nhưng cả hai không ngờ
lần chia tay năm 1940 cũng là lần vĩnh biệt, chị Thái bị giặc Pháp bắt giam và
chết ngay trong ngục tù. Bà hi sinh khi còn rất trẻ, nhiều người biết đến bà
như một hình tượng người phụ nữ mẫu mực, kiên trung, yêu nước.
Sự nghiệp quân sự của ông
Chỉ sau một thời
gian ngắn, Hồ Chí Minh đã thấy Võ Nguyên Giáp là người triển vọng nên liên hệ
với Đảng cộng sản Trung Quốc và cử anh đi học quân sự tại căn cứ địa Diên An.
Trên đường tới Diên An, anh được Hồ Chí Minh gọi quay lại vì tình hình thế giới
có nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp. Hồ Chí Minh
nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh, cần gấp rút trở về nước
chuẩn bị đón thời cơ.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và
bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội,
một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập
của Việt Nam. Năm 1941 đúng dịp tết Nguyên đán Tân Tỵ, Võ Nguyên Giáp cùng Hồ
Chí Minh trở về Cao Bằng. Trong thời gian ở hang Pác Bó, Hồ Chí Minh tiên đoán
cách mạng sẽ thành công vào năm 1945, một dự đoán chuẩn xác.
Ông là Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam
Không được đào
tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc
quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp thụ phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5
năm 1948
theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1
năm 1948,
Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi 37 tuổi.
Sau này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã
nói: "Đánh thắng đại tá phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng phong thiếu
tướng, thắng trung tướng phong trung tướng, thắng đại tướng phong đại
tướng".[9]
Cùng đợt thụ phong có Nguyễn Bình
được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn,
Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn,
Hoàng Sâm,
Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai,
Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Tháng 8
năm 1948,
ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao
vừa mới được thành lập.
Như các danh
tướng Việt Nam trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch
nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng
của ông có tên gọi là Chiến tranh nhân dân kế thừa quan điểm
quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân
sự thế giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân
được liên tục cập nhật trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ.
Trong 9 năm
trường kỳ đánh Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan trọng để phát
huy sức mạnh quân sự và đã trở thành những kinh nghiệm quý báu như: "Đại
đội độc lập, tiểu đoàn tập trung". Với chuyên gia quân sự Trung Quốc sang
giúp huấn luyện quân đội, ông chỉ đạo chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ
phương pháp của nước bạn, đồng thời nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc
tiết kiệm sinh mạng bộ đội do Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.
Năm 1954, Võ Nguyên
Giáp được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra
trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ
được thắng không được thua vì thua là hết vốn". Ông tự tin lên kế
hoạch và chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của Quân đội Nhân dân Việt
Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ,
đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp.
Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương
sau 83 năm và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh
nhân quân sự Việt Nam, một người hùng của Thế giới thứ ba, nơi có những người dân bị nô
dịch đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân
xây dựng nền độc lập của riêng mình.
Dù có thói quen viết hồi ức, Võ Nguyên Giáp vẫn chưa xuất
bản cuốn nào về giai đoạn 1954-1971.
Đây là thời kỳ Lê Duẩn từ vị trí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam tiến đến điều hành
Bộ Chính trị. Một mặt, nhà lãnh đạo này xem trọng Võ Nguyên Giáp, mặt khác, vẫn
giữ ấn tượng về việc lãnh đạo Việt Minh
đồng ý rút ra bắc theo Hiệp định Geneve với Pháp, để Hoa Kỳ có điều kiện thế
chân Pháp chia đôi đất nước. Theo các sử gia phương Tây, suốt cuộc chiến tranh
đánh Mỹ, Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn luôn đấu tranh khi âm thầm, khi quyết liệt
trước các quyết định quân sự. Trong đó, dường như Võ Nguyên Giáp thuộc phái ôn
hòa trong khi Lê Duẩn thuộc phái cấp tiến [cần dẫn nguồn]. Họ chia sự hợp
tác giữa 2 nhân vật quyết định chiến tranh ở cấp cao nhất này thành 3 giai
đoạn:
1.
Từ năm 1954 đến năm 1964, thời gian Lê Duẩn mới ra miền Bắc nắm quyền chính trị và
Võ Nguyên Giáp với tư cách người chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, cả hai nhất trí
hầu hết các điểm về đường lối quân sự;
2.
Từ năm 1965 đến năm 1972, thời gian Lê Duẩn nắm toàn quyền chính trị và ý kiến Võ
Nguyên Giáp thường bị xem là chưa đủ cứng rắn;
Tuy nhiên nghiên cứu các tài liệu của Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc từ chối
cho rằng vai trò của Tướng Giáp bị làm cho lu mờ bởi những thành viên Bộ Chính
trị trong giai đoạn cuộc chiến tranh chống Mỹ. Ông cho rằng không hề có một sự
phân chia ê-kíp trong nội bộ Bộ Chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như các nhà
sử học phương Tây vẫn phán đoán, mà theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái
"chủ hoà".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng viết trong hồi ký: "Với
tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh (tức Lê Duẩn)
đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong
những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều
chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự
với tôi những khó khăn trong công việc... Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi
đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng
Anh nói với tôi: “Anh (tướng Giáp) là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí
thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo”.
Đại sự ký hoạt động của Võ Nguyên Giáp đối với cuộc chiến
tranh tại miền nam Việt Nam như sau:
Từ năm 1954 đến năm 1956, Võ Nguyên Giáp chủ
trương đấu tranh hòa bình, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa thực hiện Hiệp định Geneve vì
một Việt Nam thống nhất, không chia rẽ về tình cảm và chính trị. Tuy nhiên, Ngô
Đình Diệm đã thẳng thừng bác bỏ yêu sách này bằng Phong Trào Tố cộng Diệt cộng.
Từ năm 1957 đến năm 1958, Đảng Lao động đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền
Nam nhưng chủ trương, biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách
mạng tiếp tục bị đàn áp và tổn thất nặng nề.
Tháng 1-1959, khi hy vọng thi hành Hiệp định Genve không
còn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, Võ Nguyên
Giáp giúp Bộ Chính trị và những người cộng sản miền nam do Lê Duẩn đứng đầu ban
hành Nghị quyết 15 Bộ Chính trị, khẳng định việc giải phóng miền nam bằng đấu
tranh vũ trang, cho phép những cán bộ kháng chiến còn lại ở miền nam tổ chức
hoạt động vũ trang.
Năm 1964, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã bí mật cử Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn vào chiến trường Đông Nam Bộ chỉ
huy quân giải phóng miền Nam đánh lớn tại Bàu Bàng, Dầu Tiếng,
Đồng Xoài... tạo chuyển biến chiến trường và
thành lập các Sư đoàn 1, 2, 3, 5, 7, 9 nổi tiếng. Trong đó, Sư đoàn 1 trấn thủ Tây Nguyên,
Sư đoàn 2 trấn thủ Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Sư đoàn 3 Sao Vàng trấn thủ Bình Định, trung đoàn 10 trấn thủ Phú Yên,
trung đoàn 20 trấn thủ Khánh Hòa,
Sư đoàn 5 trấn thủ khu vực Sài Gòn
- Gia Định,
Sư đoàn 7 cơ động chiến đấu khắp Quân khu 7
gồm Lâm Đồng, Ninh Thuận,
Đồng Nai,
Tây Ninh,
Bình Thuận, Bình Phước và Sư đoàn 9 di chuyển chiến đấu
khắp Tây Ninh
và Quân khu 9.
Năm 1968, Bộ Chính trị
và Bộ Thống soái Tối cao tại Hà Nội
phát động cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Tết Mậu Thân. Dù
thiệt hại về nhân mạng to lớn, nhưng chiến dịch đã gây tiếng vang lớn, đánh bại
Hoa Kỳ về mặt chiến lược và giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của
nhân dân phản đối chiến tranh tại Mỹ và trên toàn
thế giới, buộc Hoa Kỳ phải ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán và dần
rút quân khỏi Việt Nam. Đây là bước ngoặt của cuộc chiến tranh nhưng còn quá ít
thông tin xoay quanh Võ Nguyên Giáp vào thời điểm này, chỉ biết ông cũng tham
gia lập kế hoạch, song khi cuộc tổng tiến công diễn ra thì ông đang ở nước
ngoài trị bệnh.
Cuốn hồi ức mang tên "Tổng Hành dinh trong Mùa xuân
Đại thắng" do Võ Nguyên Giáp xuất bản lần đầu năm 2001 đã thuật lại những
hoạt động của ông vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1972 đến
năm 1975.
Năm 1972, sau đại thắng tại Chiến dịch Đường 9 Nam Lào, với kho vũ khí
khá hùng hậu, Võ Nguyên Giáp chủ trương khuếch trương chiến quả bằng một kế
hoạch quân sự ở Tây Nguyên, nơi có khả năng triển khai lực lượng lớn, đánh lớn,
gây những khó khăn lớn hơn cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Kế hoạch này
đã bị nhà lãnh đạo Lê Duẩn và Quân ủy trung ương bác bỏ do Tổng Cục tình báo 2
nhận được thông tin là Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sớm biết và đã đón
lõng tại Tây Nguyên. Đồng thời do ở gần nên mặt trận Trị-Thiên cũng dễ bổ sung
đạn dược, quân số hơn, lại có 2 mục tiêu cực kỳ quan trọng là Huế
và Đà Nẵng.
Một phương án mới được đưa ra. Quân Giải phóng sẽ chia
quân mở 3 chiến dịch tại Trị-Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sau 2 tháng,
trước những thắng lợi lớn trong Chiến dịch Trị Thiên và quân Giải phóng đã
áp sát Huế, các lực lượng bổ sung được tiếp tục đưa vào đây, còn mặt trận Tây
Nguyên thì buộc phải ngừng tiến công do hết dự trữ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề
xuất vòng qua phía tây Huế, chia lực lượng và hỏa lực đánh vào Vùng Chiến thuật
I. Tuy nhiên các đơn vị công binh mở đường do thiếu phương tiện nên thực hiện
quá chậm, không kịp phục vụ mục tiêu chiến dịch (con đường này sau đó đã phát
huy tác dụng vào chiến dịch mùa xuân năm 1975), 6 sư đoàn
tham gia chiến dịch Trị Thiên gồm 312, 308, 324, 325, 320, 341 đã hành quân
đánh trực diện từ phía bắc xuống Vùng Chiến thuật I, nơi có
Quân đoàn I và lực lượng
tổng trù bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm các Lữ đoàn Biệt động quân, Sư đoàn Dù số 1 và Sư đoàn Thủy
quân Lục chiến số 1, được không quân và Hải quân Mỹ chi viện tối đa.
Trên địa hình nhỏ hẹp dài, bên núi, bên biển dẫn đến Vùng
Chiến thuật 1, 6 sư đoàn tiến công trong tình cảnh liên tục bị bom rải thảm
B-52, pháo kích từ chiến hạm Mỹ, pháo kích từ Vùng Chiến thuật 1. Quân Giải
phóng bị chặn lại, chỉ chiếm được nửa phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Theo thông tin
gần đây cho biết, trong suốt 9 tháng chiến dịch, Sư đoàn 308 thương vong 70% quân số; Sư đoàn 312 đã bổ sung quân 13 đợt, mỗi đợt 500
người; Sư đoàn 320 thương vong 80% quân số. Các sư
đoàn còn lại tham chiến đều mất ít nhất nửa số quân. Tổng thương vong lên tới
hơn 30 ngàn người (trong đó gần 14.000 hy sinh). Chiến dịch cũng khiến Hà Nội
tiêu tốn hơn 300.000 viên đạn pháo,
gần 4/5 lượng đạn pháo trong kho, dẫn đến tình trạng thiếu đạn, chỉ còn 100.000
viên cuối năm 1974.
Cuối năm 1972, Võ Nguyên Giáp đã bố trí lực lượng đánh trả cuộc tập
kích đường không của Không lực Mỹ suốt 12 ngày đêm. Thất bại trong
chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với những điều khoản
nhân nhượng mà chính họ trước đó đã từ chối.
Năm 1974, để nắm vững tình hình thực tế chiến trường và
có quyết sách đúng đắn, Đại tướng cùng Tư lệnh trưởng Đoàn 559 Đồng Sĩ Nguyên
và chính ủy Đặng Tính đã vượt hàng trăm cây số đi thăm bộ
đội Trường Sơn trên đường mòn Hồ Chí Minh và kiểm tra sự chuẩn
bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy dự kiến vào mùa Xuân 1975.
Năm 1975, Võ Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm
hướng tấn công chiến lược, xin ý kiến Bộ Chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn
"điểm huyệt" vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa tại Buôn Mê Thuột. Chính ông nhân đà thắng trận
Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng
trong 3 ngày. Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn
Tiến Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh
quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn.
Mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là "Thần
tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ,
xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng".
Năm 1991, ông thôi chức ủy viên Trung ương, Phó Thủ tướng, nghỉ
hưu ở tuổi 80.
Thời gian gần đây tuy tuổi cao, sức yếu, nhưng ông vẫn
quan tâm và đưa ra một số lời bình luận trên mặt báo về tình hình đất nước như
có bài báo yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18,
hay cuộc gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khâu nông sản.
Vào ngày 1 tháng 11
năm 2007
ông gửi thư trong đó bày tỏ sự phản đối chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu. Ông cũng có bài
viết thực trạng và kiến nghị 6 vấn đề "cơ bản và cấp bách" nhằm triển
khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện
nay.
Vào đầu năm 2009, Võ Nguyên Giáp có nhiều góp ý về các sự kiện lớn của đất
nước. Tiêu biểu là việc góp ý về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên,
không dưới 3 lần, ông đã viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dừng dự án này, vì lý do an
ninh quốc gia và vấn đề môi trường, nhưng không được đáp trả.
Ngày 25 tháng 8
năm 2011,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mừng đại thọ tròn 100 tuổi. Hiện nay ông đang ở
tuổi 102. Đến thời điểm này, ông là chính khách
Việt Nam sống thọ nhất.
Đại tướng thường xuyên được các chính khách hàng đầu trên
thế giới đến thăm hỏi tại tư dinh của Đại tướng. Đại tướng được coi là một
tượng đài sống và có ảnh hưởng sâu rộng đến Việt Nam hiện nay, tầm ảnh hưởng
rất lớn trong lòng mỗi người dân Việt Nam.
Con cháu đời sau sẽ mãi mãi không quên những trang sử hào hùng và những đóng
góp to lớn cho dân tộc ta. Người con thân yêu, người anh hùng vĩ đại của dân
tộc.
Chúc
cho đại tướng Võ Nguyên Giáp có một sức khỏe tốt, sống lâu hơn nữa để chúng
kiến những đổi thay của đất nước chúng ta!